Nhằm hỗ trợ cho các trại giống, hộ dân nuôi tôm chủ động hơn trong công tác phòng và kiểm tra dịch bệnh trên tôm, Viện Sinh Học Phân Tử LOCI cung cấp đến quý khách hàng: “DỊCH VỤ XÉT NGHIỆM BỆNH TÔM”, với chi phí hợp lý, kết quả tin cậy. Tham khảo tại đây.
Sau đây viện LOCI cung cấp quý bà con những thông tin cơ bản nhất về tác nhân gây bệnh, chẩn đoán nhanh thông qua hình ảnh trực quan nhằm giúp người nuôi tôm có thể xác định nhanh tình trạng nhiễm bệnh của tôm để có hướng kịp thời xử lý và một số giải pháp chung để phòng tránh các loại bệnh phổ biến nhất trên tôm hiện nay.
1. Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (EMS/AHPND)
Hình 1: Tôm thẻ chân trắng có dấu hiệu nhiễm bệnh Hoại tử gan tụy (A, B). Gan tụy (HP) teo, màu nhợt nhạt; dạ dày (ST) và ruột (MG) không có thức ăn. Hình (C, D) là tôm khỏe cho thấy HP có kích thước bình thường với màu da cam hơi tối, dạ dày và ruột đầy thức ăn. Hình (B) và (D) là mẫu lấy từ hai con tôm ở hình (A) và (C) tương ứng. Nguồn: Loc Tran et al., 2013.
Hình 2:Tôm sú nhiễm EMS/AHPND có màu đậm, chậm lớn, gan tụy teo (mũi tên màu đen).
2. Bệnh đốm trắng (WSSV)
– Đối với tôm bệnh đốm trắng do virus: Tôm bệnh có nhiều đốm trắng kích thước từ 0,5 – 2,0 mm xuất hiện bên trong vỏ nhất là giáp vỏ đầu ngực, đốt bụng thứ 5, 6 và sau đó lan toàn thân. Tôm bệnh hoạt động kém, ăn nhiều đột ngột sau đó bỏ ăn, bơi lờ đờ ở mặt nước hay dạt vào bờ ao. Đôi khi tôm có thêm dấu hiệu đỏ thân. Khi các đốm trắng xuất hiện sau 3-10 ngày tôm chết hầu hết trong ao nuôi (100%). Kết quả xét nghiệm PCR dương tính với WSSV.
Hình 3:Tôm thẻ chân trắng nhiễm virus đốm trắng WSSV.
Hình 4:Tôm sú nhiễm virus đốm trắng WSSV.
Hình 5: Tôm bệnh đốm trắng do virus WSSV (Wang et al., 2000). Soi mẫu tươi dưới kính hiển vi đốm trắng cho thấy có viền tròn bao quanh (mũi tên to, rỗng), chính giữa có nhiều đốm đen
– Đối với tôm bệnh đốm trắng do vi khuẩn: Tôm mới nhiễm bệnh vẫn còn hoạt động ăn mồi và lột vỏ, có khi các đốm trắng mất đi sau khi tôm lột. Khi nhiễm nặng hơn, tôm lột vỏ bị chậm lại, chậm lớn và chết rải rác nhưng không có hiện tượng tôm chết hàng loạt, hầu hết tôm bị đóng rong, đen mang. Tôm bệnh có các đốm trắng mờ đục nhìn thấy trên vỏ khắp cơ thể. Các đốm trắng hình tròn, nhỏ và ít hơn đốm trắng do virus (WSSV). Soi mẫu tươi dưới kính hiển vi đốm trắng có dạng lan tỏa hình địa y với viền kiểu gờ khía tròn ở giữa rỗng, trong khi đó đốm trắng do virus có nhiều đốm đen (melanin) ở giữa. Các đốm trắng thường chỉ ở phía ngoài lớp biểu bì và tổ chức liên kết. Nhìn chung tôm có ăn chậm hơn nhưng không gây thiệt hại đáng kể (Trần Việt Tiên, 2014). Kết quả xét nghiệm PCR âm tính với WSSV.
Hình 6:Tôm bệnh đốm trắng do vi khuẩn (Wang et al., 2000). Soi mẫu tươi dưới kính hiển vi đốm trắng có dạng lan tỏa hình địa y với viền kiểu gờ khía tròn ở giữa rỗng.
Hình 7: Tôm thẻ chân trắng bị bệnh đốm trắng do vi khuẩn.
– Đối với tôm bệnh đốm trắng do môi trường: Tôm có đốm trắng ở vỏ đầu ngực hoặc phần vỏ ở sống lưng nhưng vẫn khoẻ mạnh, không có tôm tấp bờ, đàn tôm vẫn hoạt động và ăn đều ở mức bình thường, chu kỳ lột xác dài hơn bình thường và tôm sinh trưởng hơi chậm thì nguyên nhân bị đốm trắng là do môi trường chứ không phải là do virus hay vi khuẩn. Kết quả xét nghiệm PCR âm tính với WSSV.
3. Bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô
Hình 8: Tôm thẻ chân trắng bệnh IHHNV với các dấu hiệu điển hình như cong quẹo, phần đuôi dị hình, biến dạng.
Hình 9: Cận cảnh tôm thẻ chân trắng bệnh IHHNV. Tôm thẻ chân trắng có biểu hiện của bệnh IHHNV, thân tôm bị biến dạng
Hình 10: Tôm thẻ chân trắng có biểu hiện của bệnh IHHNV, thân tôm bị biến dạng, dị hình.
4. Bệnh đầu vàng (YHV)
Hình 11: Tôm sú chết do nhiễm bệnh đầu vàng YHV/GAV.
Hình 12: Cận cảnh phần đầu tôm sú nhiễm bệnh đầu vàng YHV/GAV.
Hình 13:Tôm thẻ chân trắng nhiễm bệnh đầu vàng YHV/GAV (bên trên) so với tôm khỏe (bên dưới).
5. Bệnh phân trắng (WFD/WFS)
Hình 14: Dấu hiệu lâm sàng của WFS. (a) Sợi phân trắng nổi trên mặt nước; (b) Sợi phân trắng trên sàng ăn; (c) Tôm nhiễm bệnh ruột có màu trắng; (d) Tôm nhiễm bệnh ruột có màu vàng nâu; (e) Ảnh chụp hiển vi bên trong của sợi phân.
Hình 15: Mẫu nhuộm tươi của mô gan tụy tôm quan sát dưới kính hiển vi quang học. (a) Ảnh hiển vi độ phóng đại thấp cho thấy có 3 con vermiform trong tế bào ống gan tụy tôm; (b) Ảnh hiển vi độ phóng đại cao cho thấy một con vermiform có các cấu trúc giống bào tử, nhưng thực ra đó là các tế bào B bị bong tróc và tồn tại độc lập; (c) Ảnh hiển vi độ phóng đại cao của ký sinh trùng nhuộm bởi dung dịch Rose Bengal cho thấy rõ các cấu trúc bên trong màng tế bào.
Hình 16: Mẫu mô gan tụy tôm nhuộm bằng H&E cho thấy rõ hình thái của vermiform và cấu trúc giống bào tử.
Hình 17: Trùng hai tế bào phân lập được trong ruột của tôm bệnh phân trắng.
6. Bệnh Taura
Hình 18: Tôm thẻ chân trắng bệnh Taura.
Hình 19: Tôm thẻ chân trắng bệnh Taura (bên dưới) so với tôm khỏe (bên trên)
Hình 20: Tôm thẻ chân trắng bệnh Taura, có kèm theo triệu chứng của bệnh nhiễm khuẩn.
Hình 21: Tôm sú bệnh Taura.
7. Bệnh hoại tử cơ, trắng đuôi, đục cơ
– Đục cơ kết hợp với cong thân: Trường hợp này thường xảy ra khi nhấc nhá (sàn, vó) lên khỏi mặt nước vào ban ngày, khi nhiệt độ rất nóng. Tôm nhảy lên và búng mạnh, rồi sau đó một số con bị cong thân. Đuôi uốn cong chạm đến phần giáp ngực, cùng lúc đó mô cơ chạy dọc theo phần giữa cơ thể sẽ trở nên trắng đục. Sau khi được thả trở lại ao, tất cả tôm cong thân đều sẽ chết vì không có khả năng tự duỗi thẳng. Tương tự, khi chài tôm kiểm tra lúc nắng nóng, tôm cũng trắng cơ và cong thân. Cách tốt nhất để hạn chế là không nhấc nhá lên khỏi mặt nước hoặc sử dụng chài để kiểm tra tôm khi thời tiết nắng nóng. Hiện tượng này đôi khi cũng xảy ra khi tắt toàn bộ quạt nước lúc cho tôm ăn rồi bật quạt chạy trở lại. Việc các dàn quạt hoạt động trở lại có thể khiến tôm “giật mình” và nhiều con nhảy lên mặt nước tạo thành “làn sóng” chạy dọc theo ao. Hiện tượng này thường xảy ra vào lúc khuya, một vài con bị cong thân khi tiếp xúc với không khí và chuyển sang trắng cơ. Thường thì người nuôi không chú ý đến hiện tượng này và đến ngày hôm sau mới phát hiện có tôm chết ở trong ao. Vấn đề này thường xảy ra khi thời tiết có nhiệt độ cao và trong ao có nhiều loài tảo giáp phát triển. Mật độ tảo giáp cao làm cho nước có màu nâu đỏ và tôm yếu đi. Cách tốt nhất để tôm không nhảy lên mặt nước do bị sốc vì bật lại máy quạt nước là khi tôm đạt kích cỡ 10 gram/con hoặc lớn hơn thì người nuôi nên duy trì hoạt động của một vài dàn quạt, thậm chí trong lúc cho tôm ăn.
– Đục cơ do trong quá trình vận chuyển hoặc sang ao: Khi kéo lưới để bắt tôm cho mục đích thu tỉa hay sang ao, một số tôm sẽ bị stress và một phần hay toàn bộ cơ thịt của nó sẽ bị trắng đục, hoặc thỉnh thoảng có sự pha lẫn giữa màu trắng và màu tối khác thường như màu cam hoặc màu đỏ hồng. Hầu hết tôm có màu khác thường này sẽ chết. Những con khác bị nhẹ nếu có hồi phục thì cũng mất vài ngày màu sắc cơ thể mới trở lại bình thường. Biện pháp tốt nhất là phải kiểm tra sức khoẻ tôm trước khi di chuyển sang ao mới. Nếu tôm khoẻ mạnh thì nó có thể chịu đựng được stress. Nếu người nuôi bắt đầu chuyển tôm và phát hiện thấy một vài con chuyển sang trắng đục thì nên hoãn lại. Nước dùng vận chuyển tôm phải có nhiệt độ 24 – 25 0C và hàm lượng oxy phải cao.
Hình 22: Tôm thẻ chân trắng bị đục cơ do quá trình vận chuyển.
-Đục cơ do hàm lượng oxy thấp: Lượng oxy trong nước ao nuôi sẽ thấp nếu như không lắp đủ các dàn quạt nước tương ứng với số tôm trong ao. Theo kinh nghiệm, mỗi mã lực điện (HP) máy quạt nước thì sẽ cung cấp đủ oxy cho 400 – 500 kg tôm chân trắng. Người nuôi nên tính số lượng dàn quạt nước vừa đủ cung cấp oxy cho lượng tôm có trong ao. Ngoài ra, vị trí đặt dàn quạt nước cũng rất quan trọng, lắp đặt các dàn quạt nước đúng vị trí sẽ tạo được dòng chảy cuốn chất thải vào giữa ao, làm cho đáy ao luôn sạch, đồng thời làm cho oxy được khuyếch tán vào mọi nơi trong ao, đặc biệt là giữa ao, nơi diễn ra sự phân huỷ các chất hữu cơ được tích tụ từ xác tảo tàn và thức ăn dư thừa. Quá trình phân huỷ các chất hữu cơ tăng lên trong suốt vụ nuôi và đây là nguyên nhân làm lượng oxy trong nước giảm xuống thấp. Chất thải hữu cơ tích tụ trong ao sẽ được vi sinh phân huỷ và hoạt động sống của chúng cần lượng lớn oxy. Khi trời có nhiều mây mù hoặc mưa trong vài ngày liên tục, tảo sẽ không thể quang hợp tốt và sẽ không tạo ra nhiều oxy. Trong khi đó, mọi sinh vật sống trong ao bao gồm tôm, tảo và vi sinh vật đều sử dụng oxy. Oxy hoà tan trong nước không đều và rất thấp ở giữa ao, đặc biệt là những ao không có sự trao đổi nước thường xuyên và thả tôm mật độ cao. Khi có nhiều tôm, người nuôi phải cung cấp nhiều thức ăn và màu nước ao sẽ đậm vì tảo phát triển dày đặc. Nếu oxy trong ao tôm từ 4 ppm trở lên, cơ thể tôm chân trắng có màu sáng bình thường. Nhưng trong những ao nuôi mật độ cao và oxy hòa tan thấp, thì tôm sẽ bị stress và cơ thể sẽ có xu hướng chuyển thành màu trắng hay mờ đục. Khi hàm lượng oxy xuống thấp 1,7 ppm thì tôm sẽ bơi lên mặt nước (tôm nổi đầu) và hầu hết sẽ chết khi lột xác. Hiện tượng này cũng đã được chứng minh ở phòng thí nghiệm Aquaculture Business Research Center của Đại học Kasetsart, Thái Lan. Tôm được nuôi trong bể kính có sục khí đầy đủ. Khi tắt máy sục khí, oxy trong nước giảm và kéo theo hoạt động của tôm giảm. Tôm không bơi lội nhiều và thường có khuynh hướng xuống gần đáy bể. Tôm sẽ không chết hoặc bơi lờ đờ lên mặt nước kể cả khi oxy trong nước thấp hơn 1 ppm. Tuy nhiên, khi hàm lượng oxy xuống thấp hơn thì hầu hết tôm có dấu hiệu mô cơ trở nên trắng đục. Một số con chỉ trắng tại phần gốc của các chân bơi.
– Đục cơ do bệnh: Ngoài những trường hợp trên, tôm còn có thể đục cơ do bệnh lý. Hiện tại, có nhiều nghiên cứu đã xác định được nguyên nhân gây bệnh đục cơ trên tôm thẻ chân trắng là do tôm bị bệnh, ví dụ như do nhiễm vi bào tử trùng (Microsporidian), hay virus (IMNV, PvNV) hay do nhiễm vi khuẩn thuộc nhóm Vibrio (bệnh trắng đuôi do Vibrio harveyi được đặt tên là “bệnh trắng đuôi do vi khuẩn” (BWTD – bacterial white tail disease). Ở vùng nuôi có độ mặn tương đối cao (25 – 35‰), tôm chuyển sang trắng đục ở một số bộ phận trên cơ thể, nhưng nguyên nhân không phải do stress mà thường do vi bào tử trùng (Microsporidian). Ngoài ra, tôm nhiễm virus gây hoại tử cơ (IMNV – infectious myonecrosis virus), hay bệnh hoại tử cơ trên tôm thẻ chân trắng do nodavirus (PvNV – Penaeus vannamei nodavirus). Hai loại virus IMNV và PvNV có nhiều đặc điểm giống với nodavirus gây bệnh trắng đuôi (WTD – white tail disease) trên tôm càng xanh (MrNV – Macrobrachium rosenbergii nodavirus). Cả hai loại virus này đầu tiên đều tấn công vào phần cơ tôm và có biểu hiện lâm sàng giống nhau là làm trắng hoặc đục ở đốt cơ đuôi trên họ tôm he. Các điểm hoại tử nhỏ bắt đầu ở phần đuôi rồi sau đó lan dần ra toàn thân. Tỷ lệ chết tích lũy khá cao, khoảng 40 – 70%.
Hình 23: Cấu trúc hình thái dòng vi khuẩn V. harveyi HLB0905 (bar = 2 µm) gây bệnh trắng đuôi.
Hình 24: Dấu hiệu lâm sàng của bệnh trắng đuôi trên tôm thẻ chân trắng. (A) Dấu hiệu tôm bệnh trắng đuôi từ ao nuôi tự nhiên; (B) Dấu hiệu tôm bệnh trắng đuôi sau khi gây cảm nhiễm bằng vi khuẩn V. harveyi HLB0905 phân lập được trong phòng thí nghiệm.
Hình 25: Tôm sú bệnh “trắng đuôi”.
Hình 26: Tôm thẻ chân trắng bị đục cơ do nhiễm vi bào tử trùng (Microsporidian).
8. Bệnh hoại tử gan tụy do vi khuẩn (NHPB) hay bệnh đốm đen
Hình 27: Tôm thẻ chân trắng bệnh đốm đen.
Hình 28: Tôm thẻ chân trắng bệnh đốm đen, sau khi lột vỏ tôm có thể hồi phục.
XỬ LÝ KỸ AO NUÔI
CÓ NGUỒN CON GIỐNG CHẤT LƯỢNG
THEO DÕI THƯỜNG XUYÊN, CHỦ ĐỘNG KIỂM TRA ĐỊNH KỲ BẰNG CÁC XÉT NGHIỆM SINH HỌC PHÂN TỬ
công nghiệp, thế giới, phát triển, nhanh chóng, qui mô, sản xuất, mức độ, thâm canh, ngày càng, xuất hiện, mầm bệnh, nguy hiểm, đe dọa, bền vững, thiệt hại, nghiêm trọng, kinh tế, hỗ trợ, công tác, kiểm tra, sinh học
Ý kiến bạn đọc